Làng định cư người Giáy ở Bát Xát

Làng người Giáy gọi là "luổng". Đặt tên làng có ý nghĩa theo tên địa bàn cư trú như tên làng Vĩ Kẽm (xã Quang Kim), theo tiếng Giáy "Vĩ" có nghĩa là khe suối, "Kẽm" nói chệch từ "cám" có nghĩa là động, làng Vĩ Kẽm có nghĩa là khe suối từ trong động chảy ra. Làng Kim (xã Quang Kim) tiếng Giáy gọi là "Lùng Chim" có nghĩa là "mỏ vàng". Thôn Tả Trang, tiếng Giáy gọi là "Tà Trang" có nghĩa là suối ở giữa...
Đám cưới người Giáy.
Chọn khu vực làng định cư với người Giáy phải có yếu tố đầu tiên là nguồn nước. Có nước thì con người mới sinh sống và trồng lúa nước được, có nhiều bãi đất phẳng để làm ruộng. Khi có đủ những yếu tố kinh tế thì làng không thể thiếu yếu tố tâm linh, đó là vị thế của làng. Vị thế của làng phải là vùng đất lành, luôn tạo cho con người một cảm nhận bình yên, nơi có núi để tựa lưng phía sau, phía trước có những bãi đất bằng phẳng, không che khuất tầm nhìn, những khu vực đạt yêu cầu như vậy sẽ được người Giáy chọn để lập làng.


Các làng của người Giáy sống gần nhau, một khu vực thường có 3 tới 4 làng, các làng phân tách nhau bởi cánh đồng, ngọn đồi, con suối. Mỗi làng có một rừng cấm, nơi đây cúng thánh thần của làng, ban lộc cho dân làng, rừng cấm cúng hai lần trong năm vào tháng 3 và tháng 7.


Những nóc nhà trong làng thường nằm chụm lại với nhau, có một trục đường chính để đi lại, thông thường các làng có cổng làng. Vào trong làng dân tộc Giáy, ngày xưa chỉ có người Giáy, nhưng ngày nay không phải chỉ có một mình dân tộc Giáy sinh sống mà có sự xen cư của nhiều dân tộc khác như: Dao, Mông... Có sự xen cư là do mua đất tới ở hoặc do quan hệ hôn nhân… Do đó mà trong làng có nhiều mối quan hệ khác nhau, những mối quan hệ ruột thịt, anh chị em sinh sống cùng nhau, có tách ra ở riêng cũng quây quần lại gần nhau, mối quan hệ anh em họ hàng, mối quan hệ hàng xóm láng giềng với những thành viên khác trong làng.


Một làng của người Giáy có khoảng từ 50 tới 100 nóc nhà hoặc hơn. Người Giáy luôn sống chan hoà với nhau, mọi người cùng làm cùng ăn, rất ít khi có chuyện xích mích tranh giành, phân biệt với các dân tộc khác.

Trong làng một năm thường trong cúng rừng hoặc cúng "thú tỷ"- cúng thần đất của làng thì cả làng kiêng kỵ trong ba ngày cấm bang, không ai được làm việc. Người ta cúng thần thổ địa vào ngày mùng 2 tháng 2 âm lịch. Dân làng thờ thần thổ địa trên những mảnh đất rộng, thoáng, vì là nơi linh thiêng, nên thường là thờ gần một gốc cây to hoặc một tảng đá lớn. Với thần thổ địa của gia đình hay một xóm nào đó thì người ta tự quy định ngày cúng tế và có lễ cúng đơn giản dâng lên và không có cấm kỵ gì.

Mỗi làng Giáy đều có những quy định riêng về các mối quan hệ về việc làng, về phong tục… mà chúng ta gọi là lệ làng, như quy định về sử dụng nguồn nước, sau là cây rừng, đất đai chăn thả gia súc, quy định với những người bỏ chồng mà rời khỏi làng, nếu có quay trở lại làng thì không được về nhà bố mẹ đẻ mà phải tới nhà chủ làng làm tôi tớ, nếu có lập gia đình tiếp thì chủ làng gả cho, bố mẹ đẻ không có quyền gì nữa.

Ở Lào Cai, ngày xưa có rất ít làng có nhiều tộc người cùng cư trú, cho nên làng của tộc người nào thì mang đậm bản sắc văn hoá của tộc người đó, từ những quan hệ gia đình, xóm làng đến những cúng tế, kiêng cấm, những quy định về việc tang, những hình thức mức độ xử phạt khi có người vi phạm quy định… đều mang bản sắc của tộc người. Tuy nhiên, có một số làng Giáy ở gần một số tộc người khác, như người Tày, người Nùng, người Mông, người Dao… thì một số hình thức, một số chi tiết cụ thể về quan hệ xã hội, về luật lệ là có thể ảnh hưởng ở những tộc người anh em đó, có nhiều ảnh hưởng, có sự giao thoa cùng phát triển, hoà nhập; để loại bỏ những hủ tục không phù hợp và phát huy bản sắc văn hóa riêng của từng dân tộc.